Tôn giả Châu Lợi Bàn Ðà Già là một đệ tử của
Phật Thích Ca Mâu Ni, người kém trí tuệ nhất. Tôn giả cũng có tên là Bàn Ðặc
được sanh trong một gia đình nghèo khó, mộc mạc và sự cách biệt của cha mẹ. Cha
Tôn giả là người vất vả, thiếu học, cuộc đời chỉ biết làm tôi tớ, còn mẹ lại là
con gái của vị trưởng giả giàu có, học rộng hiểu xa. Hơn nữa bà còn nhanh nhẹ
trước những việc khó khăn. Thế mà cuộc hôn nhân của ông bà vẫn được thành tựu
tốt đẹp, âu cũng là duyên kiếp.
Cuộc sống êm ả trôi qua, đôi vợ chồng cách
biệt này vui sướng khi sắp sửa làm mẹ. Bà chuẩn bị về quê để chờ ngày khai hoa
nở nhụy. Trên đường về lòng bà tràn ngập niềm vui, miên man nghĩ đến đứa con
xinh xắn sắp chào đời mà quên đi quãng đường xa. Chẳng mấy chốc đã gần đến nơi
chợt bà thấy đau nhói, mỗi lúc càng nhiều. Ðến lúc không chịu nổi nữa, bà phải
dừng lại bên vệ đường, tìm vào nơi kín đáo, rồi hạ sanh một bé trai trắng trẻo,
mập mạp, ấy chính là Bàn Ðặc. Thương thay cho kẻ sơ sinh phải vương mùi khổ lụy
từ khi lọt lòng mẹ.
Thuở nhỏ Bàn Ðặc thật dại khờ, vả lại nhà
nghèo nên không được đi học, vì vậy mà càng thêm dốt nát. Sau nhờ quả phước báo
may mắn được Ðức Phật độ cho xuất gia tu hành. Ðức Phật dạy ông bài kệ chỉ bốn
câu nhưng vì căn tánh ngu độn mà ông học mãi không thông. Bấy giờ Ðức Phật dùng
phương tiện thực tế giáo hóa ông, chờ khi Châu Lợi Bàn Ðặc cầm chổi quét nhà
Ðức Phật liền chỉ ngay cây chổi mà dạy rằng:
- Này Bàn Ðặc! Khi nào cầm đến cây chổi
quét nhà thì con nhớ đọc hai tiếng: “Chổi Quét”. Nếu lòng con giữ vững
được chánh niệm hai tiếng “Chổi Quét” thì con quyết sẽ chứng Thánh đạo, giải
thoát sanh tử luân hồi.
Lúc đầu, chỉ bấy nhiêu đó mà Bàn Ðặc cũng
không nhớ nổi, hễ nhớ tiếng “Chổi” thì quên tiếng “Quét”, mà nhớ tiếng “Quét”
lại quên tiếng “Chổi”. Thật con người của ông không có một chút trí nhớ
nào hết, đến đỗi ai gặp ông cũng đều cười chê, đùa cợt.
Một hôm Vương tử Kỳ Vực đến cầu Ðức Phật và
hàng đệ tử vào cung vua để thọ sự cúng dường, nhưng không mời Bàn Ðặc tham dự.
Lúc Ðức Thế Tôn cùng hàng đệ tử đến cung thì Vương tử Kỳ Vực sẳn sàng bưng thau
nước trong dâng lên Ðức Phật để rửa chân (theo phong tục Ấn Ðộ, đó là phép lịch
sự của chủ đối với khách), nhưng Ngài chẳng tiếp lấy. Thấy vậy, Vương tử ngạc
nhiên thưa hỏi:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Con kính dâng thau
nước trong này để Ngài rửa chân sao Ngài không nhận?
- Này Vương tử! Trong hàng để tử của ta đến
nhận sự cúng dường có thầy Tỳ kheo Bàn Ðặc ở đó không?
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thầy Tỳ kheo Bàn Ðặc
chỉ có hai tiếng “Chổi Quét” còn không nhớ nổi, so lại không sánh bằng kẻ
chăn dê nên con không có mời đến.
- Này Vương tử! Không phải vậy, Phật pháp
phải là bình đẳng, không phân giai cấp cao hay thấp, cũng chẳng có kẻ sang
người hèn, tất cả đều như nhau. Nếu Vương tử không mời Thầy Tỳ kheo Bàn Ðặc đến
đây thì ta không nhận lấy thau nước này.
Biết mình lầm lạc, làm trái ý Ðức Phật, Vương
tử vội phái quan đại thần đến thỉnh Tôn giả Bàn Ðặc. Khi tới nơi, Bàn Ðặc vào
lãnh thọ sự cúng dường. Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan gắp thức ăn để vào bát Bàn
Ðặc. Thấy vậy Bàn Ðặc lấy làm mừng rỡ liền đứng dậy một lúc lâu, đúng ra việc
này ông phải chờ lệnh của Ðức Phật, bởi vì đem so thì Tôn giả A Nan xuất gia
sớm hơn Tôn giả Bàn Ðặc.
Tôn giả Bàn Ðặc ngồi cách xa Ðức Phật nên
việc đem bình bát đến bên Ðức Phật khi ăn xong không phải là chuyện dễ, nhưng
bình bát của Tôn giả Bàn Ðặc vẫn được đưa đến đây trước sự ngạc nhiên của mọi
người. Ðó là nhờ sức oai thần của Ðức Phật mà đại chúng không được biết.
Thấy vậy, Vương tử Kỳ Vực vội chắp tay đến
quỳ trước Tôn giả Bàn Ðặc mà thành tâm sám hối.
Thuở trước Tôn giả Bàn Ðặc vốn ngu dốt, có
thể là tâm ông không bền vững. Mặc dù bị người đời chê cười, biếm nhã, nhưng
ông vẫn không thối chí, nản lòng, mà quyết chuyên đọc hai tiếng “Chổi Quét”
suốt sáu năm dài, để rồi ông được thức tỉnh, tâm không còn rối loạn, đi
đến Giác Ngộ và chứng Thánh quả. Từ đó về sau tâm trí phát sanh rộng lớn, ông
thấu hiểu nhiều đạo lý mầu nhiệm, lãnh hội nhiều pháp ngữ sâu xa của Ðức
Phật.
Những người trước kia khinh thường, chê biếm
ông sẽ thay ông tiêu tai nạn. Bấy giờ không còn một ai dám cười chê ông nữa mà
lại càng kính trọng hơn.
Có một lần Tôn giả Bàn Ðặc cùng 499 vị
Ðại để tử theo Ðức Phật đến cung Long Vương A Nậu Ðạt nhận sự cúng dường. Khi
đến bờ ao A Nậu Ðạt, Ðức Phật bảo hàng đệ tử:
- Này các thầy Tỳ kheo! Mỗi vị hãy múc lấy
nước tám công đức ở trong ao mà uống. Sau đó các vị có thể biết được việc đời
trước của mình.
Khi hàng đệ tử thực hành xong, Ðức Phật tiếp:
- Bây giờ các vị hãy thuật lại kiếp đời trước
của chính mình nghe ra sao.
Vâng lời Phật dạy, Bàn Ðặc liền tự thuật:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thưa toàn thể đại
chúng: Ðời trước con là một người nuôi heo. Một hôm con lùa heo đến chợ bán. Ði
được nửa đường thì bị một con sông cản lối, vì muốn đem heo đến chợ sớm nên con
không thể dừng lại đó. Con giải quyết bằng cách cột chân heo lại và lấy vải
buộc mỏ chúng để khỏi la ồn. Xong xuôi, con cầm dây từ từ kéo bầy heo qua sông.
Khi con sang được bờ bên kia thì bầy heo bị ngộp thở mà chết cả. Vốn liếng con
bị tiêu tan từ đó. Cuộc sống của con trở nên khổ sở, lắm lúc như điên dại,
thường đứng ở bờ sông ngơ ngác không tìm ra lẽ sống. May gặp được một vị cao
Tăng rộng lòng thương xót, Ngài khuyên con xuất gia tu học. Sau khi bỏ thân ấy
con được sanh lên cõi Trời. Lúc hưởng hết phước ở cõi Trời rồi mới trở xuống
nhân gian làm người.
Do vì kiếp trước buộc mỏ heo kéo sang sông
làm tổn hại rất nhiều sanh mạng nên kiếp này con mắc quả báo ngu dốt. May nhờ
kiếp trước có nhân duyên xuất gia nên đời này con được gặp Phật độ, chứng quả
vị A La Hán.
Minh Tâm
“Người tâm không an định, không hiểu biết chánh pháp, không tín tâm kiên
cố, thì không thể thành tựu được trí tuệ cao siêu”.